Trước khi xin du học, các bạn thường phải tìm hiểu về khóa học và văn bằng được cấp, cũng như giá trị của văn bằng như thế nào. Và những văn bằng sau đây là những văn bằng sau đại học (gọi là postgraduate hoặc graduate) để phân biệt với người tốt nghiệp đại học là undergraduate. Dưới đây là các văn bằng thường gặp, các bạn cùng xem và đóng góp nếu có về phungocviet03@gmail.com
Graduate Diploma
Đây là một loại văn bằng chỉ phổ biến ở các đại học Anh và Úc hay một số các nước còn chịu ảnh hưởng hệ thống giáo dục Anh. Graduate Diploma là một văn bằng “học thêm”, dành cho những đối tượng sau: (i) những người theo học các môn học khác môn học ở bậc cử nhân mà họ đã có, (ii) những người không có khả năng hay điều kiện vào thẳng bậc học Master. Sinh viên không cần phải làm luận văn tốt nghiệp. Ngày nay, số lượng sinh viên theo học Graduate Diploma ít dần, vì các trường đang cạnh tranh nhau tuyển sinh viên vào thẳng bậc Master. Khoảng ½ các môn học của chương trình Graduate Diploma là nằm trong chương trình học Master.
Master
Cũng như ở bậc cử nhân, hai văn bằng Master of Arts (M.A.) và Master of Science (M.S. hay M.Sc.) là thông dụng nhất. Tuy nhiên, còn có các văn bằng chuyên môn khác như Master of Economics, Master of Law, Master of Engineering … Riêng tại Mỹ, hiện nay có trên 500 văn bằng Master khác nhau.
Chương trình học Master, cũng giống như chương trình Graduate Diploma, nhằm mục tiêu đào tạo những chuyên viên kĩ thuật cho các cơ quan chính phủ và công ty kĩ nghệ. Sau khi tốt nghiệp, những người này phải có một khả năng chuyên môn vừa sâu, vừa vững vàng, có thể đáp ứng nhu cầu thực tế của công ty hoặc cơ quan. Chương trình master thường dành cho các sinh viên đã có bằng cử nhân cùng ngành. Tuy nhiên, hiện nay, yêu cầu tuyển sinh của nhiều trường đã được nới rộng ra cho những sinh viên “trái ngành”. Trong những trường hợp này, kinh nghiệm làm việc (working experience) thường được xem xét để bù đắp cho việc thiếu kiến thức liên quan (relevant background). Chương trình học Master có thể kéo dài 1 năm (ở Anh và nhiều nước châu Âu), 1 năm rưỡi (ở Úc) hoặc 2 năm (ở Mỹ).
Cũng cần lưu ý là chương trình Thạc sĩ Quản trị kinh doanh (Master of Business Adminstration, hay MBA) thường được phân biệt với các chương trình Master thông thường. Các chương trình MBA thường nhấn mạnh vào những môn học về quản lí, nên thông thường, đòi hỏi các ứng viên phải có kinh nghiệm làm việc ở cấp quản lí (manager). Ở hầu hết các hệ thống giáo dục, những chương trình MBA thường có chi phí cao hơn các chương trình Master khác.
Doctorate
Chương trình học Doctorate là nhằm mục đích đào tạo ra những nhà khoa học chuyên nghiệp (professional scientists), những chuyên viên nghiên cứu cao cấp. Những người này đóng vai trò then chốt cho nền khoa học của nước nhà, và đồng thời là nguồn cung cấp nhân lực giảng dạy cho các trường đại học. Thời gian học tập, nghiên cứu thường từ 3 đến 6 năm. Trong thời gian nghiên cứu, chỉ khi nào nghiên cứu sinh công bố ít nhất 3 bài báo khoa học trên các tạp chí khoa học thì mới có thể viết và bảo vệ luận án. Bài luận án này thường được 3 giáo sư hay nhà khoa học có uy tín duyệt xét và phê chuẩn.
Ở các nước Tây phương như Mỹ, Canada, Úc và Anh, văn bằng tiến sĩ (doctorate) là cao nhất trong hệ thống bằng cấp của bậc giáo dục sau đại học. Tuy nhiên, có vài khác biệt về tên gọi về văn bằng này giữa các nước.
Ở Anh và Úc, có 3 dạng tiến sĩ riêng biệt: M.Dc (Doctor of Medicine) dành riêng cho y khoa; D.Scc (Doctor of Science) cho tất cả các ngành khoa học; và Ph.D. (Doctor of Philosophy) dành cho tất cả các ngành, kể cả y khoa hay khoa học. Ở các nước này, D.Sc. thường được đánh giá cao hơn Ph.D. và M.D. vì một trong những điều kiện để vào chương trình đào tạo D.Sc. là: ứng viên phải có học vị Ph.D hoặc M.D. ít nhất 10 năm.
Không nên nhầm lẫn D.Sc. của Úc, Anh và của Mỹ. Ở Mỹ, văn bằng cao nhất là Ph.D. Các văn bằng tiến sĩ riêng biệt khác như D.Sc. (Doctor of Science), Dr.P.H. (Doctor of Public Health), Dr.Eng (Doctor of Engineering) … chỉ tương đương chứ không hề được đánh giá cao hơn Ph.D. Ví dụ: ở Đại học Harvard, học vị tiến sĩ ngành y tế công cộng là Dr.P.H., trong khi các trường khác thì cấp bằng Ph.D.
Tiến sĩ và Bác sĩ
Tiếng Việt ta phân biệt Tiến sĩ và Bác sĩ; nhưng trong tiếng Anh, những người có học vị Ph.D., D.Sc. và M.D. đều được gọi là “Doctor”. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa văn bằng M.D. của Úc/Anh và M.D. của Mỹ. Không giống như ở Mỹ, nơi mà y khoa được dạy như một chương trình hậu đại học (Graduate study, tức sau khi sinh viên đã xong chương trình Cử nhân); ở Úc và Anh, các sinh viên học y khoa được tuyển thẳng từ các trường trung học, và do đó, chương trình y khoa được xem là bậc đại học (Undergraduate), mặc dù thời gian huấn luyện tương đương.
Trong khi các sinh viên y khoa ở Mỹ ra trường với văn bằng M.D. (Doctor of Medicine, Tiến sĩ Y khoa), các đồng nghiệp của họ ở Úc ra trường với hai bằng cử nhân M.B. và B.S. (Bachelor of Medicine và Bachelor of Surgery, Cử nhân Y khoa và Cử nhân Giải phẫu). Cần được nói thêm là mặc dù văn bằng là cử nhân, nhưng danh xưng của họ là “Bác sĩ” (Doctor).
Ở Úc, các bác sĩ đã có văn bằng M.B. hoặc B.S. có thể ghi danh theo học tiếp chương trình Ph.D. hay M.D. Chương trình Ph. D. có mục đích đào tạo các bác sĩ thành những nhà khoa học chuyên nghiệp, có khả năng nghiên cứu độc lập. Chương trình M.D. có mục đích đào tạo các bác sĩ thành những chuyên gia lâm sàng (clinical science) hơn là khoa học cơ bản (basic science). Thông thường, sinh viên phải làm một hay hai cuộc nghiên cứu lâm sàng (clinical studies) và viết luận án dựa trên các nghiên cứu này. Chương trình học M.D. thông thường là 2 cho tới 3 năm (ngắn hạn hơn Ph. D.). Do đó, văn bằng M. D. của Úc và Anh không có cùng nghĩa với văn bằng M.D. của Mỹ.
Post-doctorate
Khi học sinh hoàn tất chương trình doctorate, học sinh còn phải trải qua một giai đoạn “thực tập” thông thường kéo dài khoảng 1 tới 5 năm. Người nghiên cứu trong giai đoạn này thường được gọi là “Post-doctoral fellow” (tạm dịch là nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ). Thực ra, trong giai đoạn này, thí sinh không được cấp văn bằng gì cả, vì đây là giai đoạn mà nghiên cứu sinh phải làm việc dưới sự hướng dẫn của một giáo sư kinh nghiệm, và qua đó dần dần tự mình phát triển một chương trình nghiên cứu của riêng mình. Đây cũng là thời gian mà nghiên cứu sinh có cơ hội để trưởng thành một nhà nghiên cứu độc lập. Vì thế, Postdoctoral fellow không phải là một văn bằng, và không nên hiểu như là một tiến sĩ cao cấp.
Trong thực tế có rất nhiều loại văn bằng, nhưng cơ bản thì có những loại trên, những chuyên ngành có khác nhau, nhưng tên gọi chung thì như trên.